Em Du bữa qua- Ngày 27 Tháng 4, có nhắn hỏi là: "Ở nhà, mấy hôm rày mọi người đang nao nức chờ đón kỳ nghỉ lễ 30/4 và 1/5... Bên chỗ của huynh thế nào?". Đã trả lời em Du là: "Huynh sẽ nghỉ lễ 1/5... như tất cả mọi người. Còn... Ngày 30/4...? Nếu huynh nhớ không lầm, thì hình như... Du trước đây đã có đọc cái Tản văn-Ký sự VỚI QUY NHƠN... của huynh rồi, tức là Du đã có biết rõ quan điểm của huynh về cái ngày đó rồi. Du thế là đã quên khuấy đi mất rồi. Hây-dà! Nó thuộc về thứ quan điểm... vĩnh viễn khó mà có thể thay đổi được đó Du. Cười...!!"
Đây, cái... quan điểm đó đây... (được viết cũng vào dịp 30/4 một năm nào, và đã được đăng tải ở trên Chuyên mục: Truyện hay... của Văn Nghệ Chủ Nhật, cũng vào một năm nào... Cười...!!):
VỚI QUY NHƠN...
Đó là Tình Yêu và Chiến Tranh-"
Khuyết Danh-
“Quy Nhơn nhỏ xíu, nhỏ như lòng bàn tay...” Trăm lần như một - Ba tôi bao giờ cũng khởi đầu câu chuyện về thành phố nơi ông chôn cho tôi nhúm rau vào đời bằng chất giọng ngàn ngạt và ánh mắt mơ màng, xa vắng... Phố biển buổi chiều nhiều gió. Má bảo cái ấp Đào Duy Từ nơi tôi sinh ra nằm gần sát biển, gần sát lắm..., ì ầm tiếng sóng đánh dội vào bờ cát cả ngày, cả đêm. Ba tôi trốn trực chiến ở căn cứ Tiểu Đoàn 27 Pháo Binh Diện Địa mãi tận Phù Cát để về đón đứa con trai đầu. Tôi cân nặng những hơn 4 kí-lô, chỉ khóc nghẹt một vài hơi, vài hồi rồi thôi (Chứ khóc nhiều mà làm gì? Chiến tranh đang vào thời kỳ khốc liệt. Chung quanh người ta... ai cũng khóc nhiều rồi!) Đó là về sau này tôi vẫn thường hay tự trào lộng mình như vậy, trong những lúc trà dư tửu hậu... Quy Nhơn ngày đó hủ hóa vô cùng (Ba tôi nói có thành phố nào của quê hương mình trong thời chiến tranh đó mà không hủ hóa), và tràn ngập lính ngoại quốc: Mỹ, Úc, Đại-Hàn, Tân-Tây-Lan... Chưa kể lính Sư đoàn 22 Bộ Binh của Tướng Tư Lệnh Nguyễn Văn Hiếu - có bản doanh cũng ở chính phố biển này, cùng bao nhiêu là các thứ Quân Binh Chủng... khác. Nhưng, đó là Quy Nhơn của người lớn, của bể dâu thời cuộc. Quy Nhơn tuổi thơ tôi chỉ là... tiếng ru à ơi... mà tất nhiên là tôi đã chẳng thể nào hiểu hết được, hòa cùng với tiếng sóng và mùi gió biển mặn chát thổi từ cửa bể... Là những chùm bằng lăng nở bung sắc tím cùng lúc với những cành phượng vĩ đâm hoa đỏ thắm trên tóc chị tôi mỗi buổi học về. Là bản nhạc hòa tấu của lũ ve sầu râm ran trong suốt những buổi trưa mùa hạ... trên khắp các ngã đường bình yên của thành phố nhỏ làng chài nằm trên lưỡi cát. Là tô bún cá cay xè mắt mũi, cay xóc đến tận óc vẫn được Má cho ăn vào mỗi mùa mưa tới, lúc từng cơn gió đã lại bắt đầu thổi lạnh từ phía biển. Quy Nhơn tuổi thơ tôi những ngày còn bé tý, còn bé quá để có thể nhận biết, để có thể nhớ: Thế nào thì mới được gọi là “Chính hãng” bún Diêu Trì, Đập Đá...; là bánh xèo vỏ chấm với nước mắm đục (mắm nêm) Bình Định...; là canh lá giang nấu cá nục, cá thu...; canh khổ qua đắng, cá ngừ tươi kho nước thật kỹ... trong những bữa cơm có chai rượu Bàu Đá “bản thổ” đón Ba tôi mỗi bận ông từ căn cứ pháo binh Phù Cát trở lại nhà. Ngày Ba nhận Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển ra Tiểu đoàn 34 đóng ở Phước Tường, tôi xa Quy Nhơn... mãi đến tận bây giờ mới hiểu đó chính là khởi đầu của chuyến đi mấy mươi năm không một lần trở lại. Đà Nẵng cũng có biển, cũng hào phóng gió và nắng, và những bờ cát dài duyên dáng, chỉ không có được nhiều hơn nỗi bình yên như trong những năm đầu đời ở Quy Nhơn tôi đã sống. Tiểu Đoàn 34 Pháo... đóng ở căn cứ cạnh sân bay ngay rìa thành phố. Tôi quen thuộc nhanh chóng với tiếng phần phật vần vũ của cánh quạt đủ các loại trực thăng của Quân Đoàn I, với tiếng gầm rú đến tức ngực của các loại khu trục và phản lực đeo đầy bom đạn mỗi ngày vẫn đều đặn cất cánh lao vào vùng Hỏa Tuyến... Những đàn bò bình thản, thong dong gặm cỏ quanh căn cứ, quanh các ngóc ngách vành đai phi trường. Người bạn hoa tiêu khu trục Skyraider A1 của Ba tôi vẫn chửi thề cay đắng mỗi lúc trừng mắt dõi theo những đám mây trắng nhởn nhơ bay ngang qua bầu trời thành phố, để ghi nhận thêm có bao nhiêu là cánh chim sắt nữa đã vĩnh viễn không trở về từ những miền lửa đạn. Quy Nhơn xa dần trong tâm tưởng... Rồi thì khu chợ ở ngã ba Tam Hiệp - Biên Hòa thuộc Vùng III Chiến Thuật. Nhà hàng xóm đối diện (đâu như cũng gốc dân xứ Nẫu) có đến 6 người con cả trai lẫn gái đều mang tên là Ly: Vâng Ly, Diệu Ly, Thảo Ly, Thùy Ly, Thục Ly, Câu Ly... tới con chó kêu là Ông Ly nữa. Tôi mến mến cái cô Ly nào: Thảo, Thùy, hay Thục... trong số các cô bé Ly tóc cột đuôi gà vàng hoe ngày đó? Chỉ nhớ trước nhà các cô có cây trứng cá nhiều quả chín mọng, ngọt lừ. Những buổi trưa Biên Hòa đầy nắng của tôi phần nhiều loanh quanh dưới gốc, trên cành của cây trứng cá đó (tôi đặt tên là: cây Trứng Cá Ly). Và thỉnh thoảng, những lúc Má sai chạy ra đầu chợ, cuối chợ để mua lạng bột ngọt, chai nước mắm... tôi bao giờ cũng tranh thủ tạt sang ôm đầu chú chó Ông Ly như thể để ký kết, để giao kèo thắt chặt thêm lần nữa, thêm mãi tình bạn..., tình thương mến..., tình gì nữa...? (hồi đó nhỏ làm sao tôi biết?) với các cô chủ bé bé tên Ly... Rồi ngôi trường Tiểu Học... có cái tên thật là kỳ quặc (Tôi đoan chắc không ở đâu trên khắp thế giới có cái tên trường mới nghe qua đã thấy mủi lòng này: Trường Tiểu Học Cộng Đồng Làng Thương Phế Binh Biên Hòa). Mấy năm đi học đầu tiên trong đời của tôi trôi qua ở ngôi trường nằm trong khu nhà có những dãy nhà trệt một tầng giống nhau như doanh trại, với vẻ kiêu ngạo của kẻ sở hữu những hộp diêm, những lon sữa bò trong có những chú dế lửa, dế than... hùng dũng. Tôi vẫn khoái cái cách dùng sợi tóc dài con gái tròng vào cổ mấy chú dế, rồi quay mòng mòng... hàng trăm vòng trước khi thả các chú vào với những cơn điên say bất tận. Người bạn nhỏ học giỏi, thân thiết... ngồi cùng bàn tên Chương... Cái gì đó Hoàng Chương? Tôi không nhớ được Họ của bạn. Thầy giáo chúng tôi thưa bằng Thầy Mười - cũng là một Thương Binh trở về từ những trận đánh giáp lá cà đẫm máu ở ngoài Vùng I. Những tháng ngày đẹp đẽ và thơ mộng đã chóng qua đi. Đầu tháng 01 năm 1975, Phước Long - Tỉnh lỵ đầu tiên của Miền Nam bị mất. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không thể làm được bất cứ một điều gì khác hơn là để tang cho Phước Long, sau khi đã ném thêm vào đó các Biệt Đội Biệt Cách Nhảy Dù quả cảm. Buôn Mê Thuột thất thủ ngày mồng 10 tháng 3 sau đòn đột kích chiến lược mở màn Chiến Dịch Tây Nguyên. Cuộc triệt thoái hỗn loạn và bi thảm của Quân Đoàn II về hướng biển. Tiếp theo đó là Huế - Đà Nẵng với những mệnh lệnh rối rắm: Tử thủ..., rồi Tuỳ nghi di tản... của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng - Tư Lệnh Quân Đoàn. Lá chắn từ xa Phan Rang vỡ nát trước áp lực của các cuộc tấn công cường tập: Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III Tiền Phương - Nguyễn Vĩnh Nghi bị bắt… cùng với Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang - Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân, và Đại Tá Nguyễn Thu Lương - Lữ Trưởng Lữ Dù. Chiến sự nổ ác liệt ở cửa ngõ vào Xuân Lộc - Sư đoàn 18, Lữ Dù I, 82 Biệt Động... giao tranh dữ dội với Quân Đoàn IV của Thiếu Tướng Hoàng Cầm. Phòng tuyến Ngã ba Dầu Giây bị tràn ngập. Biên Hòa căng trong chờ đợi với lệnh giới nghiêm của Chuẩn Tướng Thiết Giáp Trần Quang Khôi - Chỉ Huy Trưởng Lữ III Xung Kích. Ba tôi bắt đầu nói đến phiên hiệu những sư đoàn đối phương đã có mặt ở đâu đó xung quanh Rừng Lá. Tháng Tư - Sài Gòn đầy dây thép kẽm gai giăng trên những con đường âm u nắng... Từng tốp lính đội nón đỏ, mặt mũi thất thần vừa đi, vừa bắn: “... Mẹ! Đầu hàng rồi, đầu hàng rồi...” Những Trung Đội Nhảy Dù quây thành vòng tròn nơi các ngã Tư... đồng mở chốt lựu đạn M26... Những ánh chớp nháng lửa giữa trưa nắng của Sài Gòn một mùa khô đen kịt những cuộn khói, lặng lẽ những đám cháy, và ì ầm tiếng đại pháo từ xa vẳng lại... Vũng Tàu - Ngày tàn chiến cuộc. Tôi nhấp nhổm dưới chiếc hố được đào sâu xuống cát giữa một rừng lều bạt tỵ nạn trắng toát ngay trên bờ biển. Những Sĩ Quan Cán Bộ Bình Định Nông Thôn mặc quân phục đen... đi thăm hỏi những người tản cư lần cuối trước khi biến mất. Và tôi nhìn thấy lần đầu tiên... những “Cán Binh Bắc Việt” chân mang dép lốp cao su Bình Trị Thiên màu đỏ, đầu đội mũ cối Trung Cộng ngụy trang đầy cành lá, tay cắp súng Tiểu liên AK-47 báng gỗ, nét mặt người nào người nấy hiền khô. Trở lại quê nhà... những tháng năm dài đằng đẵng đói và khát sau 1975... Quy Nhơn đã ở đâu xa lắm, mãi trong ký ức mù tăm. Và có lẽ, cũng chính do những sự dùng dằng đẩy đưa đó của số phận mà tôi quen thân anh S - một cựu binh của Sư đoàn F10 (Sư Trưởng là Anh hùng Đại Tá Hồ Đệ), và Sư đoàn Thép Điện Biên 320 lừng danh (Tư Lệnh Đại Tá Nguyễn Kim Tuấn) thống thuộc Mặt Trận B3 - Tây Nguyên dưới quyền chỉ huy của Tướng Hoàng Minh Thảo. Sau chiến tranh, anh rời quân ngũ, dạt vào Nam đi bán cà-rem, sau hành nghề thợ xây dựng. Tôi tốt nghiệp Phổ Thông Trung Học, thành gã sơn tràng lăn lóc nơi thâm sơn cùng cốc, tiếp đó theo anh làm phụ hồ trước khi ra Huế vào Đại Học. Anh vẫn thường hay kể cho tôi nghe trong phút nghỉ ngơi hiếm hoi giữa trưa Miền Trung nóng gay gắt... về những mùa mưa rừng dài dằng dặc đói và rét, những mùa khô bao giờ cũng thiếu nước nhưng lại thừa không biết bao nhiêu là máu và nước mắt, cùng những cơn nắng cao nguyên khô khốc màu hoa Dã Quỳ vàng... Những thảm bom B-52 dọc ngang hàng vài ki-lô-mét rùng rùng những tiếng nổ lộng óc như trong cơn địa chấn, như trong đêm lửa hỏa ngục... Những địa danh Chư Pa, Đăk Tô, Tân Cảnh..., thung lũng Ia-Drang tanh mùi thây người, rặng Big Ma mù xa... Charlie, Delta, Hồng Hà, Mêtro, Võ Định... Viên Sĩ Quan Nhảy Dù trẻ măng lĩnh trọn nguyên cả một băng AK vào ổ bụng… tay vẫn nắm giữ chặt cứng ống liên hợp, giọng vẫn đều đều bình thản: “ Trình Đích thân! Tụi nó đông quá... Mấy “thằng con” của tôi “rách áo”, cộng “đi phép” dài hạn gần hết... Xin cho pháo bắn dập ngay trên đầu tôi... Minh ơi, Con ơi...!” Người tà-lọt hai tay hai súng trông như cao bồi Viễn Tây bị bắn ngang cổ, máu phun ướt chiếc nón đỏ có phù hiệu Con Ó Lữ Đoàn I Nhảy Dù. Bạn anh nằm chết khát bên bờ sông Pô-kô năm đó. Ánh thép lưỡi lê rợn ngợp ngày chiến dịch. Núi Lửa - Đức Lập..., và những trận đánh tiêu diệt chót đường chiến binh. Tháng Ba năm một ngàn chín trăm bảy mươi lăm, F10 tuôn xuống đồng bằng, bứng nút chặn cuối cùng của quân Dù trên đèo Phượng Hoàng để tràn ngập các thành phố dọc miền duyên hải... Anh bảo bao năm ở rừng, lần đầu về với biển tự dưng cứ thấy buồn nôn xây xẩm mặt mày, thấy lạ lẫm từng con sóng, từng ngọn gió..., thấy dâng tràn ngập đầy trong hồn một nỗi thèm khát vô bờ được sống sót, được nhìn ngắm một lần nữa trời cao và biển xa..., được thao thiết nhiều lần nữa cùng với những hoàng hôn trắng sóng bạc đầu và những bình minh cát... Chiến tranh quăng quật con người ở cả hai bên chiến tuyến vào những ngóc ngách khác nhau của số phận, nhưng xương máu và niềm khát sống thì lại cùng được đổ ra ở trên chính một dải đất này. Tôi xa Quy Nhơn những năm đầu đời thơ ấu ấy mang theo bao câu chuyện kể chẳng ăn nhập gì với trí óc non nớt của một đứa bé miệng hẵng còn hôi sữa (dẫu đã được sinh ra trong thời binh lửa): Này là Sơn pháo 130 ly nòng dài tầm bắn xa ngoài 30 cây số, hỏa tiễn 122 ly hú như qủy sa mạc, đại bác 57 ly không giật, 105 ly Lựu pháo, Dã pháo 155 ly - gà cồ đầu bạc, Long Tom 175 ly - Vua chiến trường; các thể thức tác xạ bắn cấp tập, bắn cấm chỉ, quấy rối, các tác xạ tiêu hủy chính xác, tác xạ trên miền… trên những mục tiêu có điều chỉnh và không có điều chỉnh, tác xạ Test Fire với nòng đại bác quay ngang bắn đạn nổ có ghi thời nổ là 2 giây, tác xạ bắn góc cao nguy hiểm…; các hỏa tập tiên liệu T.O.T(time on target), hỏa tập ngăn chặn, yểm trợ cận phòng...; lý thuyết về đường “đạn đạo”, và cuộc đời ngắn ngủn của các Đề-lô pháo binh trước những cuộc xung phong biển người tràn ngập... Vùng “xôi đậu” miệt Hoài Ân, mật khu An Lão cùng những trận đụng độ lớn nhỏ với các đơn vị của Sư đoàn 3 Sao Vàng chính quy Bắc Việt... Chiến sự ác liệt trải suốt từ Phù Mỹ, Phù Ly… qua Đèo Nhông, Diêm Tiêu, Phù Cũ… cho tới mãi tận Bồng Sơn. Mật khu Kon Hanùng ở phía Bắc quận An Túc giáp ranh Kontum và Quảng Ngãi, mật khu Vân Canh, Vĩnh Thạnh, căn cứ địa 226 lừng danh, Suối Đôi, Đồi Thánh Giá… Người bạn Sĩ Quan Tiền Sát Viên cùng khóa với Ba tôi ở Trường Pháo Binh Dục Mỹ chết mất xác tại một căn cứ hỏa lực ở Hạ Lào... “Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương…” Câu hát Ba vẫn thường hay hát lên âm u trong những buổi ngồi kể chuyện “gươm đao” cho chị em chúng tôi nghe... đã như một vết xước hằn sâu mãi vào trong tâm thức. Tuổi nhỏ chưa thể cảm nhận được hết những điều hệ trọng, chỉ thấy ám ảnh một nỗi mông lung ngơ ngác buồn... “Sau chinh chiến ôi quê hương thần thoại. Thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai…” Mùa hè năm 1972 - Hàng ngàn, hàng ngàn những thanh niên ưu tú của miền Bắc từ hơn 30 trường đại học - cao đẳng ở Hà Nội (với gần 10.000 sinh viên và cả giảng viên trẻ) lên đường vào Nam. Các chiến dịch Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, chiến dịch Nguyễn Huệ đã được mở với 14 Sư đoàn cùng 26 Trung đoàn độc lập (khoảng 120.000 quân) tiến công thẳng vào các hệ thống phòng ngự chiến lược của Việt Nam Cộng Hòa nhằm làm mất uy tín chính sách “Việt Nam hóa...”, cầm chân tối đa các lực lượng chủ lực, phá vỡ chương trình bình định nông thôn, và nâng cao vị thế quân sự - ngoại giao cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước các cuộc hội đàm hòa bình lần cuối cùng ở Paris... Cũng theo như lời anh S. thì mặt trận Bắc Tây Nguyên nổ súng ngày 12 tháng 4 với sự tham chiến của các Sư đoàn 2, 3, 320, các Trung đoàn độc lập của B3, cùng Trung đoàn 203 Tăng-Thiết Giáp. Mùa hè của khắp cả miền cao nguyên đang yên ả màu rừng xanh núi đỏ bỗng chốc ào ào nổi lửa. Lửa của những trận đánh tàn bạo khai diễn ngay từ những ngày đầu tiên. Lửa của sự hủy diệt không thương tiếc. Phi cơ ồ ạt oanh kích các mục tiêu ở dưới mặt đất suốt từ lúc sương mù buổi sáng sớm còn chưa tan hẳn cho đến tận khi chiều chập choạng tối. Pháo bắn cả ngày, cả đêm. Tiếng đề-pa “bục bục” vọng từ bốn phương, tám hướng. Các Tiểu đoàn 2, 7, 11... của Lữ Dù II nằm phơi mình trên các cao điểm trong cơn mưa pháo bắn. Lính Sư đoàn Thép nhận mệnh lệnh phải nhổ cho bằng được mấy chiếc gai Tổng Trừ Bị này... để giành quyền chủ động kiểm soát con đường quốc lộ 14 huyết mạch nối liền Kontum với thị trấn Pleiku. “Công đồn đã viện”, “Tiền pháo hậu xung”... Từng lớp người tuổi trẻ đồng loạt xông đến, đồng loạt bật dội ngược trở lại, ngã lăn lông lốc theo triền dốc, nằm vắt vẻo ngang thân xác ngay bên trên những lớp rào phòng thủ... Từng lớp người tuổi trẻ 18 tuổi chưa từng biết làn môi con gái... Từng lớp người tuổi trẻ say máu và ngất ngư điên tiết sau mỗi cơn đau đồng đội... Và những nhịp kèn xung trận giục giã như khúc biến tấu bi tráng cất lên từ bản hợp xướng chinh chiến của dàn đồng ca đủ các loại tạc đạn nổ không dứt, hòa cùng với tiếng réo kinh khiếp của lửa bom Napalm thả từ các phi tuần khu trục..., và bầu trời tím bầm đùng đục nở dày đặc những cụm khói trắng kỳ dị của đạn phòng không nổ bung trong không khí... “Hàng sống, chống chết...”- Những tiếng thét khản đặc, giọng lạc hẳn trong một nỗi căm phẫn u uất và một niềm kiêu hãnh ngây ngất dâng mờ tròng mắt, kéo co siết đến tê cứng những ngón tay miết trên cò súng... Đoạn giao thông hào ướt đẫm máu trơ trốc chiếc kèn Acmônica bên cạnh tập vở học trò chép chi chít những bài thơ tình của người đi trận:
“Hôm nay Nga buồn như con chó ốm/ Như con mèo ngái ngủ trong tay anh…”*
“Em đi như vẽ trên đường nắng/ Em nói như đàn trong miệng ai…”**
“Phố núi cao phố núi đầy sương/ Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn/ Anh khách lạ đi lên đi xuống/ May mà có em đời còn dễ thương/ Phố núi cao phố núi trời gần/ Phố xá không xa nên phố tình thân/ Đi dăm phút đã về chốn cũ/ Một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng/ Em Pleiku má đỏ môi hồng/ Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông/ Nên mắt em ướt và tóc em ướt/ Da em mềm như mây chiều trong/ Xin cảm ơn thành phố có em/ Xin cảm ơn một mái tóc mềm/ Mai xa lắc bên đồi biên giới/ Còn một chút gì để nhớ để quên…”***
Hợp đoàn trực thăng võ trang cuối cùng vào vùng. Từng cặp Gunships – UH1 cắm đầu xạ kích. Những trái hỏa tiễn xịt khói nổ lốm đốm ở ngay trên căn cứ và dọc hai bên sườn núi trông như những lời chào vĩnh biệt…
“Trên non may có tình bằng hữu/ tuổi trẻ đau chung một khúc ca/ ôm nhau thức với vầng trăng lạnh/ vượt lá tìm sao định hướng nhà.
Có những ngày đi trong núi thẳm/ tuổi trẻ nhìn nhau nhớ xóm thương làng/ thở chung một tiếng nghe sầu cháy/ tâm sự chuyền nhau điếu thuốc quan san.
Cám ơn điêu đứng rừng sinh tử/ cạm bẫy người giăng để giết người/ tuổi trẻ gần nhau trong gió lửa/ giữ dùm nhau những tiếng chim cười.”****
“Em thân yêu! Quy Nhơn bây giờ chắc là đã ngủ. Em bây giờ chắc là đã ngủ. Thành phố chắc đã thưa vắng những ánh đèn. Chỉ còn có biển, theo như anh nghĩ, chỉ còn có biển là bây giờ vẫn thức. Biển thức như anh đang thức nơi đây, trên cao điểm lộng gió này... Buổi chiều của cả một trận địa pháo hàng ngàn qủa đạn xuyên phá tung hết hầm hố... Anh cũng không biết có một phép mầu nhiệm nào đã giữ anh ở lại, để bây giờ ngồi viết những dòng này, khi mà hơn một nửa đơn vị đã ra đi... Trực thăng tản thương mãi không thể nào vào được, vì hỏa lực phòng không ken chặt. Bạn bè nằm đó hết, thi thể nhiều đứa vẫn còn hơi ấm. Đêm cao nguyên se lạnh, bầu trời đầy sao..., chỉ hiềm một nỗi khói từ những đám cháy của đợt pháo kích cuối ngày vẫn còn lơ lững che bớt tầm mắt. Gió cay mùi thuốc súng. Những ngọn gió hoang dã của rừng già đại ngàn. Không phải gió của nồng nàn vị biển. Quy Nhơn ở đâu xa? Thành phố của tuổi nhỏ của chúng mình ở đâu xa… nơi tít tắp tận chân trời có những vì sao đang nhấp nháy kia? Bao lâu anh không về phố biển? Kể từ đận lên đường dạo ấy… Bao nhiêu mùa mưa? Bao nhiêu mùa nắng? Hàng cây bên lối vắng nơi con đường dẫn vào ngôi trường Trung học … rợp nhiều bóng phượng. Lá phượng cứ xanh xanh, và hoa phượng cứ đỏ đỏ hoài trên mái tóc dài của em, trên vai áo trắng dịu dàng mỗi buổi… Em có còn xăn xắn áo dài lên gối chiều chiều nhảy sóng? Những con còng…! Ơi những con còng của biển ngày xưa…
… Đêm hôm qua, anh mơ một giấc mơ thật đẹp lạ lùng, một giấc mơ đầy ngập tràn những nụ cười và giọng nói của em. Anh mơ thấy anh cùng em đi lang thang… lang thang… trên những bãi cát mịn đẹp đẽ quê mình, qua những hàng chè, hàng me, hàng kem, hàng ổi…, hàng cóc, hàng xoài… ngay bên bờ biển. Hàng nào em cũng sà vô (bởi vì anh nợ em những bài tập làm văn em làm miết cho anh suốt từ hồi còn nhỏ tới lớn, những bài luận và thuyết trình về những tác phẩm… như là tác phẩm “Nhà mẹ Lê” của Thạch Lam, “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, “Đèo Cả, Đèo Cả…/ Núi cao ngất/ Mây trời Ai Lao/ Sầu đại dương…” cũng của ông này, “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm... " Em ơi! Buồn làm chi/ Anh đưa em về sông Đuống/ Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ/ Sông Đuống trôi đi/ Một dòng lấp lánh/ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ...", hay là những tác phẩm gì gì nữa…? Nhiều quá làm sao anh nhớ? Em thì cứ đòi đòi hoài, còn anh thì cứ cười cười trừ, cộng với gãi đầu gãi tai...) Đang “ngon giấc” thế thì toán tiền đồn ập về với một tù binh vừa bắt được, một tù binh còn rất trẻ - một thằng nhỏ, ấy vậy mà trên nón đã thấy ghi: Nam Lào – Đường 9, Căn Cứ Biệt Động Quân Bắc, Căn Cứ Biệt Động Quân Nam, Căn Cứ 5, Căn Cứ 6… và những chữ lạ lắm: “Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay…”***** Lấy cung từ không được, hỏi cách gì nó cũng không hé môi, cậu Luân - toán trưởng tiền đồn cáu tiết: “Nói lẹ lên! Không tao đá cho cái chết mẹ… bây giờ”. Tiểu đoàn trưởng cười cười: “Thì nó là Trinh Sát của Sư đoàn Thép chớ còn gì nữa. Và kỳ này là tụi nó tính “dứt” mình đây. Nên mới pháo mình kỹ vậy. Mà sao xài toàn đạn delay, ở đâu ra nhiều dữ vậy mày? Còn mấy cái chữ kia là thơ của mày đó hả? Làm thơ sao còn đi lính? Trinh Sát - Thi Sĩ à? Ha ha… Thảo nào mà mày không bị bắt. Chán mớ đời! Thôi, cho nó ăn cái gì rồi chừng nào có trực thăng gởi nó về Lữ đoàn… Chớ để ở đây xớ rớ thẩn thơ thì chết…”
… Em thương mến! Chỉ còn ít phút nữa… là B-52 sẽ đến, theo đúng như kế hoạch hỏa yểm của Lữ đoàn... Chỉ còn ít phút nữa... là những Pass bom với hàng ngàn những trái bom 500 cân Anh sẽ được thả xuống, cộng với những Boxx đạn pháo binh cũng gồm hàng ngàn qủa đạn đã được chấm sẵn toạ độ…, những tiếng nổ sẽ rít lên, lửa hủy diệt sẽ bốc cháy, và khói độc sẽ che kín bầu trời…, những vì sao của chúng mình sẽ tắt… Nhưng, em thân yêu, chẳng hề gì. Anh đã cầu nguyện thật nhiều lần cho em đêm nay được bình yên, cho cả những tháng ngày sắp tới nữa… Nhớ đừng có buồn, đừng có khóc, đừng ra biển một mình, biển mùa này nhiều sóng lớn. Nhớ đừng cắt tóc, cũng đừng x…”
“Ha ha! Ta đuổi theo trăng,
Tao cũng sẽ nhờ một ai đó giải thích cho mày lai lịch cái tên gọi “Bàn Thành Tứ Hữu” – có nghĩa bốn người bạn ở đất Bàn Thành, tức là thành Đồ Bàn của Chiêm Quốc xưa… Tên mà người đời đã dùng để gọi bốn nhà thơ từng vinh danh cho đất Quy Nhơn, Bình Định: long, ly, quy, phụng (Hàn Mặc Tử: long, Yến Lan: lân, Quách Tấn: quy, và Chế Lan Viên: phụng)… Quy Nhơn của tao đâu chỉ có mỗi niềm tự hào là đất võ, Bình Định từ hồi nào cho tới giờ cũng còn là đất văn nữa chớ… Rồi thì Lầu Ông Hoàng trong câu hát đó… Ghé thăm Lầu Ông Hoàng Đế một chút nghe mày? Xong mình sẽ tới vãn cảnh Đèo Son ở nơi địa đầu thành phố, đứng ngắm mặt trời mọc lên trên dãy Triều Châu…
Đó, Quy Nhơn đó đó… Chớ mày cứ nhớ hoài ba cái chuyện chiến tranh chi cho khổ, cho mệt đầu…
Ừ! Tôi sao cứ nhớ hoài ba cái chuyện chiến tranh làm gì cho khổ? Thời gian đã lùi đâu xa lắm... Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua? Vết thương đã lành, mọi thứ đã trở thành dĩ vãng... Nhưng, không phải, không hẳn là như thế. Tôi biết rằng không phải. Tôi biết rõ điều đó trong từng những đêm mất ngủ, trong mỗi khi nghĩ về thời thơ ấu của mình, của bạn bè cùng trang lứa... “Không có ai chọn cửa mà sinh ra”. Ờ, tôi sinh ra đã không là người Nga, người Mỹ..., người Anh, người Úc..., cũng không phải gã Di-gan cuối đường trộm cướp... Tôi sinh ra làm người Việt Nam trên mảnh đất Việt Nam một thuở đó..., của mình. Tôi sinh ra làm con của Ba tôi - hiền lành mà ngang tàng, kiêu hãnh. Làm em của anh S - cựu binh sư đoàn Thép đã đi qua không biết bao nhiêu là mùa mưa mùa nắng mà vẫn cứ còn bàng hoàng nằm mê sảng những cơn mê chiến trận... Anh cứ mãi lẩm bẩm đọc cho tôi nghe hoài nghe hủy cái câu thơ mở đầu trong bài thơ GỬI SƯ ĐOÀN CŨ... của Nguyễn Đức Mậu: “Nếu tất cả đều trở về đông đủ/ Sư đoàn tôi sẽ thành mấy Sư đoàn...”, hay cái câu thơ Lê Bá Dương: "Đò xuôi Thạch Hãn ơi chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi hai mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm..." anh khóc, hôm đi Quảng Trị về... Anh có quên gì đâu, mà hỏi vì sao tôi nhớ? Quy Nhơn, Phù Cát… ở Vùng II, Phước Tường, Đà Nẵng… ngoài Vùng I, em gái tôi sinh ra đời ở miền cát trắng Hòa Khánh - Hòa Vang, đứa nữa ở thành phố Biên Hòa… thuộc Vùng III, Má tôi đành đoạn bỏ đi một sinh linh tại nhà hộ sanh Biệt Khu Thủ Đô vào đêm trước ngày ngưng tiếng súng. Tôi từng là thằng nhóc tóc cháy vàng hoe những trưa hè bên bờ biển nhiều sóng, nhiều gió... Có người bạn bảo: Ở Quy Nhơn người ta tin là trong lời sóng biển hát ru ngày đêm vẫn có nhắc đến tên những đứa con đã đi xa. Tôi đi mấy mươi năm, chẳng biết sóng có lần nào nhắc đến, có lần nào nhớ tiếng khóc chào đời của đứa bé ngụ cư năm xưa, vào một ngày biển động... Có còn nhận tôi làm đứa con phố biển của mình?
Bao giờ thì về…? Bao giờ? Bao giờ? Tôi chưa biết… Nhưng chắc chắn là phải về chứ! Về để được bạn tôi đưa đi ăn chè Cô Bảy... Để tìm xem xem ở đâu cái ấp Đào Duy Từ một ngày xa xưa nào đã giấu nắm nhau của tôi vào giữa lòng cát ẩm? Để nếu có thể, thăm lại người em gái xứ biển đã một thời thẹn thùng e ấp đi về trong những buổi chiều muộn muộn lá me bay đầy đường... cùng với nỗi ngượng ngùng thương mến len lén dâng đầy trong những nửa khuya bập bùng nơi Ký túc xá 43-45 Nguyễn Chí Thanh… ngỡ ngàng tiếng đàn, điệu hát:
“Cây điệp vàng trước nhà em mỗi tối
Tôi rời niềm xao xuyến chưa kịp đặt tên là gì, mà không nói với em một lời, dẫu chỉ là một lời chào từ biệt. Tôi sợ điều sẽ đến. Sợ nước mắt sẽ làm liu ríu bước chân tôi. Tôi sợ mình không có đủ dũng khí để nhìn vào đôi mắt ấy, ở trong đấy có màu xanh ngây ngất của biển cháy, có mặt trời đỏ rực buổi sáng sớm, nắng vàng ươm như mơ và sóng hát mãi một điều gì cho bờ cát... “Miền Trung mưa..., Sài Gòn chiều nay có mưa không hả Hương?” - Tôi đã viết cho em như thế, vào buổi chiều hè cuối cùng trên bãi biển quê nhà trước chuyến đi xa... Tôi đã không ghi địa chỉ. Cho mãi đến tận bây giờ tôi cũng chẳng thể nào hiểu nỗi hành động đó của mình. Tôi ngại... Điều ấy thì đã hẳn... Tôi không muốn? Hay tôi mong muốn một điều gì? Tuổi trẻ, ôi tuổi trẻ! Tuổi trẻ kiêu kỳ, tuổi trẻ bồng bột và dại khờ... Tuổi trẻ làm đau mình, đau người... mà nhiều khi không tự biết. Hương chờ tôi ở Sài Gòn để trả lời lá thư tôi viết bằng nét bút, bằng những câu chữ... mà có lẽ suốt đời tôi, tôi cũng không thể nào quên được... “Miền Trung mưa..., Sài Gòn chiều nay có mưa không hả Hương? Có đấy anh ạ! Sài Gòn chiều nay mưa... và nỗi nhớ ngập lòng...”
Tôi năm nay bao nhiêu tuổi? Bao nhiêu là mùa xuân, bao nhiêu là mùa hạ... Bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng đã trôi qua... kể từ buổi rời thành phố nhiều bằng lăng và rợp trời hoa phượng vĩ? Bao nhiêu miền đất tôi đã đi, bao nhiêu miền nữa đang chờ bàn chân tôi bước tới? Tôi vẫn còn trẻ lắm..., mà sao lòng như đã thấy muốn quay về ngồi bên mép nước quê nhà rũ bụi đường xa..., mà sao lòng như đã thấy muốn quay về để nói với người con gái yêu kiều một thời, rằng... hình như không phải thế, hình như tất cả... đáng lẽ ra phải khác, hình như tôi đã cố tình giấu diếm, đã không chân thật được với cả chính mình..., hình như tôi đã đánh mất một điều gì quý giá..., hình như... Và em có thể sẽ mỉm cười nụ cười độ lượng, có thể sẽ xoa đầu tôi dịu dàng, rồi bảo: “Này anh, tóc anh đã chớm bạc hết đây này!” Thì... cũng đã trải bao bể dâu, bao nhiêu nước chảy qua cầu... Hương ơi! Bây giờ em ở đâu?
*Thơ Nguyên Sa
Trung tá Nguyễn Đình Bảo- Tiểu đoàn trưởng, và Đại úy Đoàn Phương Hải- Trưởng ban
3_ Hành quân - Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tại căn cứ Charlie mùa hè năm 1972. Căn cứ đã
bị dập nát trước hết bởi những trận pháo kích của đại bác tầm xa 130 ly, sau đó bị lính
của Sư đoàn Thép F320A dưới quyền chỉ huy của Sư trưởng Đại tá Nguyễn Kim Tuấn
tràn ngập. Thương vong gần hết, Tiểu đoàn 11 buộc phải mở đường máu thoát ra khỏi
Charlie, bỏ lại toàn bộ thương binh và tử sĩ kể cả thi thể của Trung tá Tiểu đoàn trưởng,
để rồi rơi gọn vào trận địa mai phục và bị tiêu diệt.
Mày chết xác không mang về được
Hồn vất vưởng đâu đất lạ Tuy Hòa
Tháng của đời nhau mở những đường xa
Đâu biết tuổi xanh mày tàn như lá
Tác chiến sao mày cứ khơi khơi
Như chiều học thi mang đàn hát vọng
Như vỗ banh bóng rổ tàng tàng
Theo nắng chiều sang sân Phan Thanh Giản
Như thương người về rớt mất tú tài đôi!
Mày chết chín năm hồn phách chơi vơi
Tụi tao theo đời rẽ dăm ba nhánh
Nhánh đông, nhánh tây đều mang ảo ảnh
...
Chiếc xe đạp chở ba qua thành phố... xa xôi
Mộng gì đây- bảy thằng- nay chới với
Có còn ai về bên hàng hiên bóng tối
Hương trầm giỗ người chết tuổi hai mươi
...
(Giỗ chín năm mày bạn ấu thời ơi- Nguyễn Nam An)
- Nguyenkhangthien
- 21:12 1 thg 5 2012
Có những nỗi niềm chẳng biết gởi vào đâu....Đại Huynh hè!
Ừ, đúng là chẳng biết gửi vào đâu thật... Hôm qua, 30/4- đi một vòng quanh các blog, thấy thiên hạ người ta hò hét, trương khẩu hiệu nhiều quá, toàn những lời đao to búa lớn... Bao nhiêu năm đã trôi qua rồi, mà giờ vẫn còn đại thắng với chiến bại, ta và địch, và kẻ thù... Xương máu thì vẫn cứ hoài lặng lẽ... Máu của người lính Miền Nam trên cao điểm, máu của người lính Miền Bắc nằm phơi xác nơi những lớp hàng rào phòng thủ... Bỏ qua một bên những hận thù phi lý, những nhân danh chủ thuyết-trào lưu-phe phái này nọ..., thì máu đó chính là máu của những người anh em ruột thịt can trường như nhau của cùng một Người Mẹ... Chiến tranh, tất nhiên đã được thực hành bằng thứ tư duy lạnh lùng, tàn nhẫn của sắt thép và súng ống (không loại trừ bằng cả những toan tính chiến lược của các siêu cường ở bên ngoài lãnh thổ, trên bàn cờ địa - chính trị thế giới) Cổ nhân trước đã dạy: "Chớ đem thành bại luận anh hùng". Huống hồ... Xưa Hoàng Đế Quang Trung hành binh thần tốc ra Thăng Long đại phá quân Thanh, cũng chính bằng số nghĩa quân cất đi từ vùng Thuận-Quảng của xứ Đàng Trong, có mộ thêm một ít lính tân binh Thanh-Nghệ vốn thuộc Đàng Ngoài lúc Ngài dừng chân ở đất cố hương Nghệ An để ủy dụ quân sĩ, chao ôi, làm sao mà lại có thể có được kẻ thắng người thua ở trong số những hậu duệ của đoàn chiến binh vinh quang và quả cảm đó...? Lịch sử là công bằng, nhưng lịch sử cũng cần có thời gian, cần có độ lùi nhất định đủ để cân-đo-đong-đếm mọi thứ... Một dân tộc, nếu muốn trường tồn- tất không thể, và không được phép đánh mất đi điều cốt lõi chính yếu nhất: Đó là... Lòng Nhân Bản, là những Phẩm Chất Người...
Người về sâu đáy mộ
Cỏ may đâm áo quần
Hồn sao đau lỗ chỗ!
....
Mẹ thắp hương bàn thờ
Đứa nón cối nón sắt
Thêm một ngày bơ vơ."
...
- Cô nhỏ
- 23:19 30 thg 4 2012
Thêm một công dụng đáng iu của sợi tóc con gái.
Tình cảm của "thằng nhóc tóc cháy vàng hoe những trưa hè bên bờ biển nhiều sóng, nhiều gió" với quê hương thứ hai này da diết thế. Đọc xong entry này mệt đứt hơi, ước chi có chè cô Bảy làm vài chén cho ...lại sức hè, Hai hè...
- Cỏ
- 21:20 1 thg 5 2012
Là nói chuyện hồi lúc nhỏ thôi. Chứ tóc con gái... lớn thì làm sao có được bất cứ một thứ công dụng đáng iu nào? Chỉ tổ tốn xiền... để mua dầu gội đầu... ngoại, huhu...
Nỗi nhớ của Cỏ, giống nỗi nhớ của Nguyễn Hồi Thủ. Thương lắm những cảm xúc Cỏ ạ. Cả cảm xúc về chiến tranh. Thương không sống ở thời đó, không sống những năm tháng hào hùng, oanh liệt, bị thương, bi hùng của cả dân tộc như Cỏ, nhưng phần nào hiểu được và xúc động lắm.
Chép tặng Cỏ bài thơ của Nguyễn Hồi Thủ nhé. Bài thơ giản dị mà có sức lay động thật sâu xa.
Chúc Cỏ thật vui, nếu có thể hãy về với Em và Quy Nhơn nhé!
Em ở sát nhà tôi
Cách nhau bờ giậu thấp
Tụi mình học cùng lớp
Mẹ em bán cau, bán thuốc
Chợ Đầm xa vời vợi
Đường đi cát trắng trùng điệp nắng
mà khi về chợ vẫn hay cười.
Hương ơi
bên giếng nhà em có bụi chuối bồ hương
quanh năm bóng mát sang vườn nhà tôi
nhà tôi lài lý thơm về tối
tôi bỏ ra đi mười mấy tuổi
mà sao còn nhớ tóc em dài...
Đây, Cỏ ơi!
Hồi đó còn nhỏ chút Thương ui...!!! Có 5-6 tuổi thui... Học mẫu giáo và lớp 1. Ký ức tuổi thơ có lưu giữ lại được ít nhiều. Phần quan trọng là từ kỷ niệm cùng những câu chuyện kể của Ba và những người như anh S... Cho nên, có thể nói: Ngoại trừ lá thư của người lính Quân Lực Miền Nam trên cao điểm là do Cỏ tưởng tượng, còn lại tất cả các tình tiết khác đều là sự thực...
Bài thơ của Nguyễn Hồi Thủ Cỏ đọc từ những ngày còn là học trò đi học. Không quên được. Nhưng nay Thương chép nó ra đây, thì mặc nhiên Cỏ sẽ xem đó như là một điểm đồng quy đã có giữa chúng mình... Cảm ơn Thương!!!!
Quy Nhơn, tất nhiên là Cỏ sẽ về trong một ngày gần. Còn Hương? Năm Cỏ học ở Sài Gòn để chuẩn bị đi Nga, Hương là sinh viên Đại học Tài chính-Ngân hàng, và sống cùng nơi Kí túc xá Nguyễn Chí Thanh với Cỏ... Bây giờ, Hương ở đâu? Làm gì? Cỏ chịu, chẳng thể nào biết được...
Bảo Thương at 05/01/2012 09:13 pm reply
Vậy à? Thế nên mới khắc khoải thế, và càng giống tâm trạng của Hồi Thủ: Hương ơi, bên giếng nhà em...
*dainhanming at 05/02/2012 09:27 am reply
Tôi bỏ ra đi Mười mấy tuổi Mà sao còn nhớ tóc em dài…
-
"Chiến tranh quăng quật con người ở cả hai bên chiến tuyến vào những ngóc ngách khác nhau của số phận, nhưng xương máu và niềm khát sống thì lại cùng được đổ ra ở trên chính một dải đất này." Em thích nhất câu này đó Cỏ huynh. Tiếc là bây giờ người ta vẫn (cố tình) quên xương máu của 2 miền đều là máu của mẹ Việt Nam. Thương những ám ảnh của tuổi thơ về cuộc chiến. Yêu cái mối tình đơn sơ thánh thiện của Cỏ với nàng Hương. Khi nào về Cỏ huynh dắt tụi em đi ăn chè Cô Bảy nhé.
*
lãngtử at 05/04/2012 11:21 pm reply
-
quán đó dẹp tiệm rồi
*
saobien at 05/04/2012 11:30 pm reply
-
Chắc tại sp tới ăn nhiều rồi quỵt nợ chứ giề
*
Cỏ at 05/05/2012 04:49 am reply
-
Thì đi chè Cô Tám, Cô Chín, Cô Mười, Cô Mười Một... lun, cho nó mấu
*
lãngtử at 05/03/2012 08:08 pm comment
-
Cái còm của mềnh già hú nó xóa sạch là sao????????????
*
Cỏ at 05/03/2012 08:30 pm reply
-
Thì... mần lại cái còm khác
*
lãngtử at 05/03/2012 08:40 pm reply
-
Tại hôm ấy đọc thấy xúc động nên muốn chia sẻ với Cỏ á. Giờ viết lại cũng được nhưng nó không còn như buổi ban đầu nữa...giống như coppy rồi paste qua. Tử hem thích như vậy, vì thấy nó ko dc thật lòng (cai này do tâm tưởng) hehe...Nên để vậy cho nó nhớ dai. Lục bát cũng già cú đế rồi chứ bộ...già hú ổng lẩm cẩm thì có....ehhee
*
MinhHa at 05/03/2012 01:10 pm comment
-
Đọc anh, Mh thường hình dung đến bác sỹ Zivago. Không hiểu sao lại thế.
*
Cỏ at 05/03/2012 02:35 pm reply
-
Út không hiểu, thì anh cũng chịu chít, làm sao hiểu...
-
Cỏ huynh Đa Tài quá. Viết Tản Văn ký sự khốc liệt và trữ tình quá. Em cùng Anh đồng tư tưởng về chiến tranh. Ai thắng ai bại. Bây giờ đã đủ thời gian và độ lùi để nói về chiến tranh chưa
*
Cỏ at 05/03/2012 05:10 am reply
-
Từ Gia Long- Thế Tổ Cao Hoàng Đế Nhà Nguyễn đến nay là bao trăm năm? Từ Hồ Quý Ly là bao nhiêu? Vậy mà những nhận xét và đánh giá công-tội vẫn hãy còn bề bề trái ngược... Cuộc Chiến tranh Đông Dương lần 2 chấm dứt cách ta mới có mấy mươi năm... Lịch sử vốn vô tư, với thời gian, rồi sẽ làm công việc của nó... Điều duy nhất có thể cảm nhận đúng, và đủ đầy ngay từ lúc này là: xương đã phơi, máu đã đổ, nước mắt đã rơi..., những mất mát khổ đau từ cả hai phía đã là có thật, những mất mát khổ đau không chỉ của riêng ai... Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa tuy mất, nhưng còn có đó Nghĩa trang Liệt Sĩ Trường Sơn... Ai dám bảo máu của những người lính đứng dưới bóng cờ này thì đỏ, còn ở về phía của các lực lượng khác thì không? Những người lính không phải là những nhà tư tưởng, không phải là những chính trị gia. Những người lính- không phải người nào cũng hiểu thế nào là chủ nghĩa cộng sản, thế nào là thế giới tư bản? Những người lính, trước hết là những công dân, sau nữa là những người cha, người chồng, người bạn, người anh, người em... Những người lính đã ngã xuống- Đúng Sai xin để cho lịch sử phán xét- Còn chúng ta, chúng ta có bổn phận phải nghiêng mình, phải cúi đầu... trước tất cả họ, nếu như trong mỗi chúng ta còn có được chút gì trung thực...
*
dainhanming at 05/02/2012 09:48 pm reply
-
Bây giờ vẫn còn nhiều mẹ già chờ con, vợ chờ chồng, con chờ cha chẳng bao giờ thấy bóng. Bao trai tráng chôn tuổi trẻ bừng bừng khi thế dưới những nấm mồ hoang xương trắng ngoài biên ải nghìn thu. Những tuổi Xuân sắc có bao giờ biết động cơ mục đích của chiến tranh. Làm sao biết cái nào tốt cái nào xấu. Làm sao biết trên bàn đàm phán người ta đã sắp xếp thỏa Thuận những gì. Ôi còn bao nhiêu cảnh đời chia cắt. Bao nhiêu nỗi đau cào xé con người bởi chiến tranh. Làm dân đen luôn chịu thiệt thòi. Chiến tranh là tội ác là Man rợ. Là bất công cho người già em bé và phụ nữ. Người tạo nên chiến tranh là người mang tội ác ghê rợn hơn bất cứ tội ác nào.
-
Kg bít Ut có gì sai kg? Nhưng Ut kg thể coi những phim chiến tranh. Cứ coi là Ut mún bệnh Huynh à. Năm nào sắp 30-4 cũng chiếu " Biệt động Sài Gòn" và nhiều phim khác nữa, mà Ut kg coi. Thà coi phim tình cảm Hàn Quốc. Hix. Mấy hum nay huynh đi đâu, thấy vắng bóng huynh ra vô?
*
Cỏ at 05/05/2012 04:37 am reply
-
Huynh đi kiếm bông bí về xào tỏi..., mà không có...
*
HOA TULIP at 05/05/2012 04:36 pm reply
-
Để ut kiếm xào cho huynh , chứ huynh chắc gì bít mần?
*
Du ca at 05/01/2012 10:32 pm comment
-
Gần một năm nay Du đi đi về về TP mà huynh đang nhắc, đó là quê hương của ông xã Du, mà cũng là nơi Du nằm dưỡng bệnh trong những ngày qua. Huynh viết tản mạn kiểu này Du ngộp thở mất... Ngày xưa chắc Huynh học văn phải không? Thường thì viết tản hay sẽ làm thơ không đạt lắm. nhưng huynh thì khác, văn hay tản mạn của huynh luôn đi vào lòng Du và chắc chắn có rất nhiều người nửa có cùng cảm giác với Du : nhẹ nhàng.. nhưng đau đáu cõi lòng!
*
Cỏ at 05/02/2012 03:34 am reply
-
Trời đất ui! Có cấy chi mô mà tài hè, Du hè...? Thì cũng giống y như Du rứa, huynh đôi khi cũng biết im lặng lắng nghe mà... Xong rồi chịu khó tìm cách diễn đạt... bậy bậy rứa thui
*
Du ca at 05/02/2012 12:23 am reply
-
Du thường khi comment chỉ ngắn gọn vài lời, đó là khiếm khuyết cuả Du. Nhưng không phải vì thế mà không “lắng nghe”. Du cũng rất ít khi khen ai, mà khen là khen thật tình. hình như đây là lần đầu Du khen huynh dù Du ngưỡng mộ tài huynh lâu lém rồi.
*
Nguyenkhangthien at 05/01/2012 10:17 pm reply
-
Đại Huynh rép mờ già khú chỉ cho đọc được mấy dòng. Bà mịa! đến cái chốn ảo này mờ còn chia cắt nữa thì... He he Trưa hum qua trốn lễ, em về ngoại thành chơi, ngồi nhậu với vài vị có máu mặt, em bảo rằng nếu có ước mơ em chỉ ước được cất ngày 30/4 vào một góc thương đau của lịch sử nước Việt buồn! Xem đó là ngày đại giỗ của đất mẹ Việt Nam... Một Bác bảo em có tư tưởng phản động... Nhấp li rượu trên môi nghe đắng ngắt!!!
-
Ghé thăm Cỏ, xanh hoài nhé
*
Cỏ at 05/01/2012 07:38 pm reply
-
Sắp... úa mịa nó roài
*
DHV at 05/01/2012 11:24 pm reply
-
kệ tui!